Bia ma nhai tại danh thắng Ngũ Hành Sơn là kho tàng di sản tư liệu quý giá bằng chữ Hán và chữ Nôm với số lượng lớn, nội dung đa dạng
Vào lúc 12h30 theo giờ Hàn Quốc (tức là 10h30 theo giờ Việt Nam) ngày 26/11/2022, tại Hội nghị toàn thể lần thứ 9 của Ủy ban Chương trình Ký ức Thế giới khu vực châu Á-Thái Bình Dương (gọi tắt là MOWCAP) diễn ra từ ngày 23/11 đến ngày 26/11/2022 tại Andong, tỉnh Gyeongsang Bắc, Hàn Quốc, “Ma nhai tại danh thắng Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng, Việt Nam” chính thức được công nhận là Di sản tư liệu thuộc chương trình Ký ức Thế giới khu vực châu Á – Thái Bình Dương.
Hội nghị MOWCAP* đã xem xét và bỏ phiếu cho 13 hồ sơ của 07 nước thành viên đệ trình công nhận Di sản tư liệu Chương trình ký ức thế giới khu vực châu Á-Thái Bình Dương; trong đó: Hàn Quốc, Indonesia, mỗi nước có 03 hồ sơ; Trung Quốc, Việt Nam, mỗi nước có 02 hồ sơ; Singapore, Iran, Bangladesh mỗi nước có 01 hồ sơ.

*MOWCAP thành lập năm 1998, là diễn đàn khu vực thuộc Chương trình Ký ức thế giới (MOW) của UNESCO thành lập năm 1992 với mục đích ghi nhận, hỗ trợ bảo tồn, phát huy các di sản văn hóa thuộc dạng tư liệu trên thế giới, đó có thể là các văn bản, bản khắc, bộ phim, bức ảnh, giọng nói (băng ghi âm), hay bút tích có giá trị lịch sử văn hóa. MOWCAP là một trong 5 Ủy ban cấp khu vực của MOW gồm Châu Phi, Châu Âu và Bắc Mỹ, Châu Á và Thái Bình Dương, Mỹ Latinh và Caribe, Liên bang Ả rập với khoảng 100 quốc gia thành viên của 5 khu vực. MOWCAP được thành lập nhằm mục đích hỗ trợ bảo tồn, phổ cập và nâng cao nhận thức về sự tồn tại cũng như tầm quan trọng của các di sản tư liệu thuộc khu vực Châu Á – Thái Bình Dương
Cả 2 hồ sơ của Việt Nam đăng ký là Ma nhai* tại danh thắng Ngũ Hành Sơn và Văn bản Hán Nôm làng Trường Lưu, Hà Tĩnh (1689-1943) của tỉnh Hà Tĩnh đều được vinh danh.
*Ma nhai là các bản văn khắc trên các vách đá, bia đá. Bia ma nhai tại danh thắng Ngũ Hành Sơn là kho tàng di sản tư liệu quý giá bằng chữ Hán và chữ Nôm với số lượng lớn, nội dung đa dạng, hình thức độc đáo, tính duy nhất không thể thay thế với nhiều thể loại như ngự bút, bia ký, thơ văn, đề từ, đề danh, câu đối… của các vị vua, quan triều Nguyễn, cao tăng, cùng các tao nhân, mặc khách đã từng dừng chân lưu đề trên vách đá, hang động tại danh thắng Ngũ Hành Sơn, với niên đại trải dài từ nửa đầu thế kỷ XVII đến tận những thập niên 60 của thế kỷ XX.
Bà Nguyễn Thị Anh Thi, Thành uỷ viên, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân thành phố Đà Nẵng cho biết “Ma nhai tại danh thắng Ngũ Hành Sơn” là một hệ thống gồm 78 văn bản bằng chữ Hán và chữ Nôm (Hán Nôm) được khắc trên vách đá và hang động của danh thắng Ngũ Hành Sơn, với nội dung đa dạng, hình thức độc đáo, cùng nhiều thể loại văn học của các vị vua, quan triều Nguyễn, cao tăng, trí thức, có niên đại trải dài từ nửa đầu thế kỷ XVII đến thế kỷ XX.
Theo nhận định của các chuyên gia, đây là nguồn di sản tư liệu quý hiếm, độc đáo, không thể thay thế, được các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước quan tâm bởi những giá trị nhiều mặt về lịch sử, tôn giáo, địa lý, văn học, ngôn ngữ, nghệ thuật tạo hình, văn hóa và giáo dục.
Trong đó, ma nhai “Phổ Đà Sơn Linh Trung Phật” lưu giữ những “ký ức” về mối giao lưu kinh tế, văn hóa, chính trị, xã hội giữa Việt Nam với các nước trên con đường hàng hải xuyên khu vực cũng như vai trò của người phụ nữ Việt Nam trong hôn nhân quốc tế vào thế kỷ 17.

Bên trái của tượng Phật, trên vách động Hoa Nghiêm là tấm bia Phổ Đà Sơn linh trung Phật quý hiếm do nhà sư Huệ Đạo Minh lập năm Canh Thìn 1640.
Ma nhai tại danh thắng Ngũ Hành Sơn được các thành viên của MOWCAP đánh giá cao, đáp ứng đầy đủ các tiêu chí mà UNESCO đưa ra như: tính xác thực và vẹn toàn; ý nghĩa khu vực; ý nghĩa về giới; có kế hoạch bảo tồn, phát huy giá trị bền vững và khoa học.
Với những giá trị nổi bật đó, Ma nhai tại danh thắng Ngũ Hành Sơn đã được Hội đồng MOWCAP đánh giá cao và công nhận là Di sản tư liệu thuộc Chương trình Ký ức Thế giới khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Đây là di sản được công nhận ở tầm khu vực đầu tiên của thành phố Đà Nẵng. Sau khi được UNESCO vinh danh, thành phố Đà Nẵng sẽ nỗ lực hơn trong công tác bảo tồn bền vững và phát huy giá trị di sản này.
KHO TÀNG DI SẢN TƯ LIỆU QUÝ GIÁ
Trên các bức tường trong hang động của danh thắng quốc gia đặc biệt Ngũ Hành Sơn, những dấu vết về ma nhai vẫn được người dân thành phố giữ gìn nguyên vẹn. Bởi đây chính là nguồn cứ liệu lịch sử chân xác, là kho tàng di sản tư liệu quý giá bằng chữ Hán và chữ Nôm với số lượng lớn được các vị vua, quan triều Nguyễn, cao tăng, các thế hệ tao nhân, mặc khách đã từng dừng chân lưu đề trên vách đá, hang động tại danh thắng Ngũ Hành Sơn từ nửa đầu thế kỷ XVII đến thập niên 60 của thế kỷ XX.
DẤU XƯA CÒN LẠI
Trong lịch sử, danh thắng Ngũ Hành Sơn vốn là một trung tâm tâm linh tín ngưỡng, nơi người Champa thể hiện sự ngưỡng vọng của mình tới các đấng thần linh tối cao.
Từ thế kỷ XVII-XIX, Ngũ Hành Sơn trở thành một trung tâm Phật giáo xứ Đàng Trong của Việt Nam. Cũng trong giai đoạn này, cùng với sự phát triển của kinh tế ngoại thương Đàng Trong, Ngũ Hành Sơn nằm bên cạnh sông Cổ Cò – con sông nối liền cửa Hàn đến cửa Đại Chiêm, nối liền con đường chính cho hoạt động thương mại từ Đà Nẵng đến thương cảng Hội An đã trở thành điểm dừng chân lý tưởng của những thương nhân người Nhật, người Hoa, người Ả Rập… và các thương nhân, nhà truyền giáo Tây Phương.

Trong lịch sử, danh thắng Ngũ Hành Sơn vốn là một trung tâm tâm linh tín ngưỡng, nơi người Champa thể hiện sự ngưỡng vọng của mình tới các đấng thần linh tối cao. Ảnh: Kim Liên
Minh chứng rõ nhất cho vấn đề này là các nội dung được ghi lại trên văn bia ma nhai “Ngũ Uẩn Sơn Cổ Tích Phật Diệt Lạc”, Nam Bảo Đài hinh bi, Phước Quảng Sa môn, Phổ Đà Sơn Linh Trung Phật. Tuy nhiên, cũng có lúc các di tích và bia ma nhai tại danh thắng Ngũ Hành Sơn bị hủy hoại bởi chiến tranh.
Theo nhiều tư liệu lịch sử ghi lại, từ năm 1802, khi triều Nguyễn chọn Thừa Thiên Huế là kinh đô thì Đà Nẵng trở thành phên giậu quan trọng che chắn phía Nam để bảo vệ vương triều. Do đó, Đà Nẵng được triều đình nhà Nguyễn đặc biệt quan tâm, các vua thường xuyên đi thị sát và thăm thú nhiều cảnh đẹp nơi đây, trong đó có danh thắng Ngũ Hành Sơn.
Đặc biệt, vua Minh Mạng đã 3 lần xa giá đến Ngũ Hành Sơn. Trở về sau những chuyến đi, ông đã lệnh cho tôn tạo Ngũ Hành Sơn, trong đó chủ yếu là xây dựng và sửa sang các chùa chiền, tô tượng, đúc chuông, ban cấp kinh sách.

Tiếp sau vua Minh Mạng, các đời vua Thiệu Trị, Tự Đức, Thành Thái sau này đều có những ưu ái đối với Ngũ Hành Sơn. Đi cùng trong các chuyến xa giá, vãng cảnh Ngũ Hành Sơn với các vị vua triều Nguyễn là các hoàng thân, đại thần và danh nhân nổi tiếng và để lại nhiều bài thơ, tán khắc lên vách đá bên trong các động.
Đó là những tác phẩm văn chương thể hiện cảm quan thẩm mỹ, cảm nhận và tình yêu cá nhân của các tác giả trước cảnh thiên nhiên hùng vĩ, kỳ tú của đất nước, đồng thời qua đó, họ cũng thổ lộ lòng tin tưởng, tự hào về một đất nước tươi đẹp, một lịch sử oai hùng và một dân tộc có nền văn hiến lâu đời như bài thơ Khả lân sơn sắc, Bài thơ Vọng Ngũ Hành Sơn, bài thơ Ngũ Hành tú sắc,… Đặc biệt là bài thơ Phong nguyệt tỉnh thành viết theo lối ca trù bằng chữ Nôm của Quảng Nam Bố chánh Tiểu Cao Nguyễn Văn Mại.
Ma nhai Ngũ Uẩn Sơn Cổ Tích Phật Tịch Diệt Lạc
Tiếp sau vua Minh Mạng, các đời vua Thiệu Trị, Tự Đức, Thành Thái sau này đều có những ưu ái đối với Ngũ Hành Sơn. Đi cùng trong các chuyến xa giá, vãng cảnh Ngũ Hành Sơn với các vị vua triều Nguyễn là các hoàng thân, đại thần và danh nhân nổi tiếng và để lại nhiều bài thơ, tán khắc lên vách đá bên trong các động.
Đó là những tác phẩm văn chương thể hiện cảm quan thẩm mỹ, cảm nhận và tình yêu cá nhân của các tác giả trước cảnh thiên nhiên hùng vĩ, kỳ tú của đất nước, đồng thời qua đó, họ cũng thổ lộ lòng tin tưởng, tự hào về một đất nước tươi đẹp, một lịch sử oai hùng và một dân tộc có nền văn hiến lâu đời như bài thơ Khả lân sơn sắc, Bài thơ Vọng Ngũ Hành Sơn, bài thơ Ngũ Hành tú sắc,… Đặc biệt là bài thơ Phong nguyệt tỉnh thành viết theo lối ca trù bằng chữ Nôm của Quảng Nam Bố chánh Tiểu Cao Nguyễn Văn Mại.

Ma nhai Linh Nham Động (ngự bút vua Minh Mạng)
Theo tài liệu Ngũ Hành Sơn Lục ghi chép lại: “Từ đó về sau vua các triều đều có ngự lãm, quan lại thường đến tham quan, thơ văn, bia ký, đề tặng đều được khắc lên vách đá trong động”.
Tuy nhiên, từ sau khi vương triều nhà Nguyễn sụp đổ (năm 1945), do ảnh hưởng của các cuộc chiến tranh, ma nhai tại danh thắng Ngũ Hành Sơn ít xuất hiện dần và kể từ sau ma nhai “Du Ngũ Hành Sơn” của tác giả Thích Diệu Ngộ khắc năm 1961 đến nay thì không còn xuất hiện nữa.
NGUỒN CỨ LIỆU LỊCH SỬ CHÂN XÁC
Hệ thống Ma nhai tại danh thắng Ngũ Hành Sơn gồm 78 văn bản bằng chữ Hán và chữ Nôm được khắc trên vách đá và hang động của danh thắng với nội dung đa dạng, hình thức độc đáo cùng nhiều thể loại văn học.
Trong đó, tập trung ở động Hoa Nghiêm khoảng 21 ma nhai, động Huyền Không 30 ma nhai, động Tàng Chơn 20 ma nhai, động Vân Thông 2 ma nhai, động Linh Nham 3 ma nhai và nằm rải rác ở một số nơi khác.
Trong số các động ở Ngũ Hành Sơn thì động Hoa Nghiêm và động Huyền Không là hai nơi được khắc thơ văn đa dạng nhất. Đó là những công trình thi thư, thi họa rất độc đáo, đẹp mắt, tạo ấn tượng lớn cho người xem.

Hệ thống Ma nhai tại danh thắng Ngũ Hành Sơn gồm 78 văn bản bằng chữ Hán và chữ Nôm được khắc trên vách đá và hang động
Điển hình như bài thơ Bạch thạch hoàng sa thúy tác đôi của Đại thần Trương Quang Đản ở vách đá động Huyền Không với kiểu chữ Hành đá Thảo cực kỳ bay bướm; hay như bài Hát nói của Tiểu Cao Nguyễn Văn Mại được đặt trên một phiến đá bằng phẳng, gắn vào bên mé trái gần cửa động Huyền Không. Mặc dù hiện nay có một đường nứt nhỏ ở góc dưới, bên phải, song chữ vẫn còn đầy đủ và chân phương, rất đẹp…
Nghệ thuật chạm khắc còn thể hiện rõ nét nhất là ở các ma nhai dạng bia ký niên đại thời chúa Nguyễn, trong số đó có hai bia nổi bật nhất là Ngũ Uẩn Sơn cổ tích Phật tịch diệt lạc và Phổ Đà Sơn Linh Trung Phật. Cả hai ma nhai này có niên đại vào thế kỉ XVII, sớm nhất trong số các bia hiện còn. Kiểu thức trang trí của nó có sự khác biệt, mang đậm dấu ấn thời Chúa Nguyễn.
Theo nội dung khắc trên văn bia “Phổ Đà Sơn Linh Trung Phật” (1640) và “Ngũ uẩn sơn cổ tích Phật tịch diệt lạc” (1631), ngay từ thế kỉ XVII, Phật giáo ở đây có sự ảnh hưởng rộng khắp và mang tính quốc tế. Nội dung cả hai văn bia đều nói về việc thiền sư Huệ Đạo Minh (quê ở xã Du Xuyên, huyện Ngọc Sơn, phủ Tĩnh Gia) đến tu sửa Phật tích, lập đạo tràng, cùng tín hữu gần xa lo việc Phật sự của Ngũ Hành Sơn; đồng thời thể hiện sự tán thán và cầu nguyện Phật pháp phù hộ, độ trì chúng sanh. Ma nhai còn khắc ghi danh sách công đức tín chủ. Cả hai văn bia đều do thiền sư Huệ Đạo Minh lập sau khi hoàn thành công tác Phật sự.

Ma nhai tại danh thắng Ngũ Hành Sơn
Dữ liệu từ hai ma nhai này cũng cho thấy lúc bấy giờ, Ngũ Hành Sơn đã trở thành trung tâm văn hóa tín ngưỡng không chỉ của người Việt mà còn của người Nhật Bản và Trung Hoa. Danh sách 82 đạo hữu cùng số tiền họ phụng cúng được khắc ghi ở “Phổ Đà Sơn Linh Trung Phật” cho thấy được điều này. Tổng số tài sản phụng cúng rất lớn là 1.915 quan tiền, 65 lạng bạc nén và 570 cân đồng để xây dựng chùa Bình An. Song vấn đề không phải là tài sản hay số tín chủ mà là danh tính, địa chỉ của họ. Trước hết, trong số những người Việt tín cúng, có những người xuất thân từ các địa phương cách xa danh thắng Ngũ Hành Sơn, thuộc các huyện Hòa Vang, Điện Bàn và Hội An ngày nay. Đặc biệt còn có một số người Hoa và người Nhật Bản.
Tại động Tàng Chơn, hiện còn một bia ma nhai đã bị đục bỏ nội dung, chỉ còn lưu lại 5 chữ tiêu đề “南 寶 薹 馨 碑” – Nam Bảo Đài hình bi”. Xét hình thức trang trí hoa văn, 03 ma nhai này thuộc loại bia cổ thời chúa Nguyễn. Những hoa văn này không thấy xuất hiện trên các ma nhai thời sau ở Ngũ Hành Sơn.

Bên cạnh đó, các ma nhai này cung cấp những thông tin quý giá về nghệ thuật chạm khắc của làng nghề đá mỹ nghệ Non Nước. Theo các nghệ nhân làng nghề đá mỹ nghệ Non Nước kể lại rằng, để có thể chạm khắc được 01 tấm bia ma nhai phải qua các quy trình thực hiện như sau: Tìm vị trí chạm khắc; Làm bằng bề mặt đá Tạo tác nội dung.
Ma nhai ở danh thắng Ngũ Hành Sơn là những dương bản duy nhất, có số lượng lớn, hiện còn ở trên các trên vách đá. Những người nghệ nhân xưa đã dựa vào thế núi (địa thế của vách đá) để chọn lựa và lưu khắc, tạo ra những bức thi thư, bia ký.
Ma nhai Nam Bảo Đài hình bi
Để làm được điều này, ngoài bàn tay tài hoa, kinh nghiệm nghề nghiệp, những người nghệ nhân còn phải am hiểu chữ nghĩa, am tường nghệ thuật thi pháp và có sự tỉ mỉ, tinh tế. Các bia ma nhai được ra đời trong sự kết hợp của tâm hồn, tài hoa của thi nhân và kinh nghiệm, kỹ nghệ của người nghệ nhân điêu khắc đá Non Nước.
NỖ LỰC THỰC HIỆN TỐT HƠN NỮA SỨ MỆNH BẢO VỆ VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ DI SẢN
Ma nhai ở danh thắng Ngũ Hành Sơn mang nhiều giá trị vượt ra ngoài ranh giới của một quốc gia. Đây là niềm vinh dự, tự hào của đất nước Việt Nam nói chung và thành phố Đà Nẵng nói riêng. Trong nhiều năm qua, Đà Nẵng đã và đang nỗ lực triển khai nhiều giải pháp, thực hiện tốt hơn nữa sứ mệnh bảo vệ và phát huy giá trị “Ma nhai tại danh thắng Ngũ Hành Sơn” xứng tầm với vị thế của một di sản tư liệu thuộc Chương trình ký ức Thế giới khu vực Châu Á – Thái Bình Dương.
ĐỘC BẢN VÀ QUÝ HIẾM
Theo các nhà nghiên cứu, hệ thống ma nhai tại danh thắng Ngũ Hành Sơn là nguồn tư liệu di sản vô cùng quý hiếm, có giá trị to lớn vượt thời gian. Hệ thống ma nhai này còn bao hàm cả tính độc bản và quý hiếm.
Tính độc bản của ma nhai được thể hiện rất rõ bởi mỗi ma nhai là thực thể độc lập và duy nhất, không lặp lại, không phải là sản phẩm giống nhau được sản xuất hàng loạt. Không những thế, mỗi đơn vị văn bản trong hệ thống ma nhai tại danh thắng Ngũ Hành Sơn là một thực thể tồn tại duy nhất, không giống với các thực thể khác về chất liệu định hình văn tự, về nội dung văn tự, và về phương thức thể hiện văn tự. Điều đó đã khiến cho mỗi đơn vị văn bản ma nhai là duy nhất, không có đơn vị tương đương để thay thế.

Tính độc bản của ma nhai được thể hiện rất rõ bởi mỗi ma nhai là thực thể độc lập và duy nhất, không lặp lại, không phải là sản phẩm giống nhau được sản xuất hàng loạt. ẢNH: MINH TRÍ
Tính quý hiếm của hệ thống ma nhai tại danh thắng Ngũ Hành Sơn còn được thể hiện về mặt số lượng. Theo các nhà nghiên cứu ma nhai tại Việt Nam: “So với các địa chỉ lưu dấu văn khắc trên đá nổi tiếng của Việt Nam, Ngũ Hành Sơn không chỉ vượt trội về mặt số lượng (với 79 văn khắc), tích hợp đa niên đại khắc bản, phong phú về thể loại, hội tập nhiều thế hệ tác giả là những danh nhân, yếu nhân của 3 miền đất nước cũng như ngoại kiều, mà còn hơn thế, văn khắc trên vách đá ở Ngũ Hành Sơn với nghệ thuật điêu khắc đá tinh xảo đọng lại qua hệ thống bia ký thời các chúa Nguyễn còn đánh dấu một nét son đáng tự hào trên bản đồ phân bố bia ký tại Việt Nam”.
Không những vậy, hệ thống ma nhai tại danh thắng Ngũ Hành Sơn là tài liệu gốc duy nhất được vua Minh Mạng ngự bút và cho khắc lên các vách núi, hang động. Sự kiện này được ghi chép lại trong các tài liệu lịch sử như Đại Nam Nhất Thống chí, Đại Nam Thực lục, Đại Nam dư địa chí ước biên…
Đặc biệt hơn, bia ma nhai “Phổ Đà Linh Trung Phật” tại Ngũ Hành Sơn luôn là nguồn dẫn liệu quan trọng của tất cả các nhà nghiên cứu trong nước và quốc tế khi đề cập đến vấn đề ngoại giao văn hóa kinh tế của 3 nước Việt Nam – Trung Quốc – Nhật Bản nói riêng và giao lưu hàng hải khu vực châu Á – Thái Bình Dương nói chung.
THỰC HIỆN TỐT HƠN NỮA SỨ MỆNH BẢO VỆ VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ DI SẢN
Trải qua gần 400 năm, từ thời chúa Nguyễn đến nay, do ảnh hưởng của khí hậu, thời gian, chiến tranh và con người mà hiện nay chỉ còn 52/79 ma nhai Hán Nôm còn đọc được. Số còn lại bị bào mòn bởi thời gian, bị bôi lắp bởi các lớp sơn và xi măng, bị nứt vỡ bởi chiến tranh, bị người đời sau đục bỏ hoặc khắc thêm chữ quốc ngữ, làm biến dạng hoặc mất một số chữ Hán.

Ma nhai ở danh thắng Ngũ Hành Sơn mang nhiều giá trị vượt ra ngoài ranh giới của một quốc gia. ẢNH: MINH TRÍ
Sớm nhận thức được giá trị của ma nhai Ngũ Hành Sơn, những năm gần đây, chính quyền địa phương, Sở Văn hóa và Thể thao thành phố đã hợp tác cùng chuyên gia trong nước và trên thế giới tiến hành triển khai hàng loạt dự án bảo tồn các di sản tư liệu này. Bởi vậy, “vật mang tin” loại hình văn khắc này vẫn giữ được như là hiện vật gốc độc bản, chưa bị sửa đổi.
Ban quản lý di tích danh thắng Ngũ Hành Sơn đã xây dựng các phương án quản lý, bảo vệ di tích Ngũ Hành Sơn nói chung và bia ma nhai nói riêng: đặt bảng chỉ dẫn tham quan để ngăn du khách sờ vào bia đá, bố trí lực lượng túc trực nhắc nhở du khách, vệ sinh sạch sẽ khu vực bia ma nhai, xử lý các thực vật gây hại, đặt các pano giới thiệu nội dung bia ma nhai.
Với vai trò là đơn vị quản lý về chuyên môn, Sở Văn hóa và Thể thao cho biết, hiện nay Sở đang tham mưu cho UBND thành phố lập Quy hoạch bảo quản, tu bổ, phục hồi Danh lam thắng cảnh Ngũ Hành Sơn; xây dựng các quy định, quy chế về quản lý, bảo vệ di sản văn hóa vật thể và phi vật thể gắn liền với danh thắng Ngũ Hành Sơn.
Trong đó chú trọng việc đẩy mạnh công tác áp dụng công nghệ số để bảo tồn các ma nhai tại danh thắng Ngũ Hành Sơn như sưu tầm, sao chụp, dập bản, số hóa, phiên âm dịch nghĩa hệ thống ma nhai phục vụ công tác nghiên cứu lâu dài. Đây được xem là giải pháp khoa học tối ưu để bảo tồn nguồn tài liệu quý giá, độc nhất trước nguy cơ hư hại bởi thời tiết và thời gian.
Cùng với đó, sẽ tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến nguồn tài liệu văn khắc một cách thường xuyên và rộng rãi thông qua các hoạt động trưng bày, triển lãm và trên các phương tiện thông tin như tổ chức các hoạt động, trưng bày, triển lãm văn khắc Hán Nôm tại các kỳ lễ hội, mở các cuộc thi viết thư pháp Hán Nôm, lập trang web, thư mục giới thiệu, quảng bá các bản văn khắc độc đáo. Chú trọng công tác giáo dục, truyền thông trong cộng đồng nhằm phát huy vai trò của chủ thể quan trọng này trong việc bảo vệ, phát huy di sản.
Tập trung công tác nghiên cứu khoa học, chọn lọc và xuất bản các ấn phẩm liên quan đến các văn khắc để nghiên cứu về Phật giáo Đàng Trong và nghiên cứu về dấu tích cùa người Việt Nam cũng như người nước ngoài đã đặt chân đến di tích này.
Những tác phẩm tiêu biểu trong hệ thống văn khắc trên vách đá trong các hang động ở ngọn Thủy Sơn thuộc Ngũ Hành Sơn sẽ được tuyển chọn đưa vào trường học để giáo dục truyền thống, nâng cao nhận thức trong thế hệ trẻ về giá trị và ý thức bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa dân tộc.
Cùng với các giải pháp nói trên, Sở Văn hóa và Thể thao cũng đề ra một số giải pháp bảo quản, tu bổ ma nhai như: vệ sinh, xử lý toàn bộ ma nhai bị rêu bám, che phủ bởi sơn và xi măng; gia cố, gắn các bia ma nhai bị nứt vỡ và nghiên cứu, xác định tiêu chuẩn ký thuật bảo quản bia ma nhai; tuyên truyền nâng cao ý thức của người dân và du khách trong việc bảo vệ di sản;…
Với nhiều giải pháp được đưa ra, thành phố Đà Nẵng đã và đang nỗ lực thực hiện tốt hơn nữa sứ mệnh bảo vệ và phát huy giá trị “Ma nhai tại danh thắng Ngũ Hành Sơn” xứng tầm với vị thế của một di sản tư liệu thuộc Chương trình ký ức Thế giới khu vực Châu Á – Thái Bình Dương.
Các nguồn tài liệu tham khảo:
1. Cổng thông tin điện tử thành phố Đà Nẵng: danang.gov.vn;
TRUNG TÂM XÚC TIẾN DU LỊCH TP. ĐÀ NẴNG