Làng gốm Thanh Hà nay thuộc phường Hội An Tây, TP. Đà Nẵng (trước năm 1945 thuộc xã Thanh Hà, huyện Diên Phước, phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam).

GIỚI THIỆU CHUNG VỀ LÀNG GỐM THANH HÀ
Làng gốm Thanh Hà nay thuộc phường Hội An Tây, TP. Đà Nẵng (trước năm 1945 thuộc xã Thanh Hà, huyện Diên Phước, phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam). Làng có không gian sản xuất gốm, sành, gạch, ngói âm dương, vôi phân bổ ở nhiều ấp thuộc phía Tây và Nam của làng như: Nam Diêu, Thanh Chiếm, An Bang, Hòa Yên, Hậu Xá. Khu vực sản xuất gốm tập trung tại khối Nam Diêu, phường Thanh Hà, thành phố Hội An.

LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
- Quy mô và lịch sử phát triển
Theo hồi ức của các vị cao niên, cách đây khoảng 70 năm trở về trước, ở ấp Nam Diêu có đến 50 hộ sản xuất gốm, 30 – 40 bàn xoay chuốt, 8 lò nung sành và hàng chục hộ buôn gốm với tổng lao động là 200 – 300 lao động. Ngoài ra, còn có một số hộ làm nghề sản xuất gốm, sành, gạch, ngói, vôi ở ấp Thanh Chiếm (nay là khối Thanh Chiếm, giáp Nam Diêu về phía Đông Bắc), ấp An Bang (nay là khối An Bang, giáp Nam Diêu về phía Bắc), ấp Hậu Xá (cách Nam Diêu khoảng 1km về phía Đông).
KHÔNG GIAN VĂN HOÁ VÀ ĐIỀU KIỆN SẢN XUẤT
- Tình hình nghề gốm hiện nay
Người dân Thanh Hà ở hiện có 32 hộ làm gốm với 134 lao động trên tổng số 320 hộ, trong đó có 5 hộ làm gốm truyền thống, 13 hộ làm con thổi, số còn lại là hộ làm gốm mỹ nghệ và có ít nhất là 3 người buôn gốm chuyên nghiệp; có 4 lò gốm truyền thống (lò úp, lò bầu), 4 lò ngửa để nung gốm mỹ nghệ, 5 lò ngửa để nung con thổi. Đội ngũ thợ gốm ở Thanh Hà hiện nay đều là hậu duệ của các tộc tiền hiền làng Thanh Hà: Nguyễn Viết, Nguyễn Văn, Nguỵ, Bùi, Phạm, Lê.
- Nguyên liệu làm gốm
Nguyên liệu chính để làm gốm là đất sét vàng, dẻo có độ kết dính cao. Loại đất này thường nằm ở các ruộng ven sông, ở độ sâu cách mặt ruộng khoảng 50 – 100cm, cách đây 60 năm trở về trước, đất được khai thác tại ấp An Bang, Thanh Chiếm (Thanh Hà) và vùng đất giáp với Thanh Hà thuộc Điện Phương ngày nay. Hiện nay, thợ gốm mua đất ở Thanh Quýt (Điện Bàn), Thi Lai (Duy Xuyên)… người bán đất vận chuyển bằng ghe đến Thanh Hà bán.

QUY TRÌNH SẢN XUẤT/ KHAI THÁC
Sản phẩm gốm truyền thống được làm theo các qui trình sản xuất cổ truyền như sau:
- Các công đoạn chế tác:
+ Làm đất: đất được hòa với nước rồi dùng các mai dỡ, mai tỉa, mai chém, nề để băm, chém đất thành từng cục và nhào trộn 3 lần cho sạch, dẻo.
+ Chuốt gốm (tạo hình phôi): thợ đẩy đẩy bàn xoay và nặn con đất trên ghế nhồi đất, thợ chuốt ngồi cạnh bàn xoay, đặt con đất vào bàn xoay, hai tay áp vào con đất nặn thành phôi.
+ Sửa nguội: phôi được phơi nắng cho khô dần rồi chỉnh sửa cho cân đối, sau đó đem phơi cho cứng hẳn.
+ Kỹ thuật tráng men (dùng cho ngói thanh lưu ly, hoàng lưu ly): Men được làm từ đồng, chì, đá son, cao lanh… Nguyên liệu được nghiền mịn, trộn với 50% nước sạch tạo thành men sống hay nói cách khác là làm thành một lớp thủy tinh mỏng để làm bóng và bảo vệ da gốm không thấm nước. Gốm đã qua nung nhẹ lửa được lấy ra nhúng men sau đó đưa vào nung tiếp để cho men chín, bám vào da gốm.
+ Nung gốm: gốm, sành được nung trong lò bầu, lò nung sành gọi là lò xanh, lò đỏ dùng nung gốm. Lò xanh hình chữ nhật, thành lò bằng gạch, mái bầu bằng đất sét; cao khoảng 3m, rộng 5 – 6m, dài 4 – 5m, có 2 cửa lửa ở phía trước (đun củi), 3 cửa độ/đạo thông gió ở phía sau, 3 lỗ thông hơi ở mái. Lò đỏ nhỏ hơn lò xanh, cao khoảng 2,3m, rộng 2m, dài 3m. Củi nung truyền thống là củi rừng dền, dẻ, trường, trám, nay thợ lò dùng củi dương liễu (phi lao). Mỗi đợt nung lò sành cần 10m3 củi, nung gốm cần 5 – 7m3 củi. Nung gốm, sành theo qui trình: un (sưởi ấm lò), chụm thắt (tạo lửa nhiều để phôi thành phẩm). Khi nung, bằng kinh nghiệm của mình, thợ lò nhìn thấy khói trong suốt thoát ra sẽ đoán biết được độ nóng của lò và gốm đã thành phẩm hay chưa. Trước đây, khi nung sành, người thợ còn sử dụng om thăm (thăm dò trạng thái gốm trong lò khi đang nung) để ở cửa độ, om chịu sức nóng từ lò thoát ra mà chín thì sản phẩm trong lò đã chín và qua trạng thái của om, người thợ cũng đoán biết được sản phẩm đã được nung là tốt hay xấu. Liên quan đến trạng thái/màu sắc của am thăm có cả nhiều tên gọi riêng của nghề để mô tả và đi kèm với đó là tri thức nhận biết sản phẩm.

SẢN PHẨM TIÊU BIỂU
Sản phẩm gốm truyền thống được làm theo các qui trình sản xuất cổ truyền như sau:
+ Gốm, sành truyền thống Thanh Hà: đa dạng về loại hình (hơn 40 loại sản phẩm), gồm các đồ gia dụng (hũ, bình vôi, vại, nồi, thạp, diệm, trả, om, bùng/lùng binh… các loại) dùng để đựng nước, muối, mắm, gạo, các loại ngũ cốc, thổ sản…; dụng cụ sản xuất của nghề dệt ở Duy Xuyên, Điện Bàn, nghề làm đường ở Đại Lộc – Quảng Nam (nay là Đà Nẵng) (vại ươm tơ, âu suốt đựng chỉ dệt, cái muống/mú lọc đường); gạch, ngói đất nung, đồ gốm dùng trong hoạt động tín ngưỡng (lư hương, tượng ông táo, quách…).
Đặc trưng kiểu dáng sản phẩm là hũ thì có dáng miệng loe, cổ eo, vai, đáy thuôn, trôn bằng; nồi, niêu, chảo, siêu gốm… cùng chung kiểu miệng loe, vành miệng được vê tròn, cổ eo, ngắn, bụng phình to, đáy tròn. Đồ gốm, sành không men, da lán hoặc thô, xương mịn, đa số không có hoa văn, riêng một vài loại hũ sành được trang trí viền răng cưa nổi, văn lượn sóng ở cổ, vai.
+ Gốm mỹ nghệ: được chế tác công phu hơn, để có da gốm mịn, thợ gốm đánh, lắng, lọc đất thành dung dịch mịn rồi đổ vào khuôn trong 12 giờ cho đất kết tủa thì phơi phôi. Đồ án trang trí của gốm mỹ nghệ thường là Hán tự có ý nghĩa cát tường, hoa văn hình học, tên đơn vị kinh doanh… Cũng có sản phẩm được tạo áo gốm bằng vỏ trứng. Phôi gốm mỹ nghệ có thể được nung trong lò bầu hoặc nung riêng ở lò ngửa.
Gốm mỹ nghệ có ít nhất 33 loại sản phẩm gồm tượng đức Phật, Chúa…, đèn gốm áp tường, con tiện, chậu, lọ hoa, mô hình các di tích kiến trúc, hộp, gạt tàn thuốc, mặt nạ gốm…
Những sản phẩm này được nhiều cơ sở du lịch, dịch vụ (nhà hàng, khách sạn, cafe) ở Hội An, Đà Nẵng, Huế, Đà Lạt, thành phố Hồ Chí Minh đặt hàng để trang trí nội ngoại thất. Trong những năm gần đây có một số hàng hóa đã được xuất khẩu sang Nhật, Úc, Đức, Anh, Pháp, Mỹ,…

+ Con thổi – sản phẩm lưu niệm: Con thổi là loại hình gốm mới, có từ cuối thập niên 90, thế kỷ XX, được chế tạo đơn giản nhưng những sản phẩm này vẫn thể hiện các đề tài văn hóa truyền thống như bộ 12 con giáp, con thổi hình trẻ chăn trâu… được nhiều du khách mua làm lưu niệm.
+ Làm ngói âm dương: Ngói âm dương được làm từ đất sét vàng như đất làm gốm và trải qua các công đoạn: Nhồi đất, in phôi, phơi 1 nắng, rập (xếp thành từng hàng, vỗ cho cong thành ngói), vô nề (xếp thành từng hàng riêng), phơi 1 nắng, vô lò nung. Ngói âm dương được nung trong lò bầu (lò nung sành, nung gốm) hoặc lò ngửa nung gạch, ngói có nhiều kích cỡ khác nhau.
+ Làm gạch thẻ: Các công đoạn giống như làm ngói âm dương, chỉ khác nhau ở dùng khuôn và không qua công đoạn rập.
+ Làm tượng thờ ông Táo: Làm đất sét chín, nhồi đất, in bằng tay, phơi khô 2 ngày nắng, nung.
+ Quách gốm cũng là một sản phẩm tín ngưỡng (dùng để cải táng người quá cố) được chế tác: Làm đất sét chín, nhồi đất, Đắp bằng tay (từng miếng), ráp, phơi khô, nung.
Làng gốm Thanh Hà được công nhận là làng nghề cấp Tỉnh vào năm 2014, đến năm 2019, nghề gốm Thanh Hà được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đưa vào Danh mục Di sản văn hóa phi vật thể Quốc gia tại Quyết định số 2695/QĐ-BVHTTDL, ngày 27/8.
Các nguồn tài liệu tham khảo:
- Cục Di sản văn hóa – Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch: https://dsvh.gov.vn
TRUNG TÂM XÚC TIẾN DU LỊCH TP. ĐÀ NẴNG